Combo 4 cuốn Triết Lý Giáo Dục
Tác giả: Nel Noddings, Nguyễn Xuân Xanh, Rousseau, Whitehead
Hình thức: Bìa mềm, 4 cuốn, 1970 trang
Thể loại: Giáo dục học
Nhà xuất bản: Tổng Hợp, KHXH, Tri Thức, Hồng Đức
Combo 4 cuốn Triết Lý Giáo Dục
1. Đại học định chế giáo dục cao thay đổi thế giới từ Trung cổ đến Hiện đại
Đó là tên cuốn sách mới xuất bản gần đây của tác giả Nguyễn Xuân Xanh - tác giả của nhiều cuốn sách về Albert Einstein, đồng chủ biên về các sách lịch sử khoa học và giáo dục đại học, khai phóng.
Đại học là một định chế giáo dục cao đã đồng hành cùng nhân loại trong suốt 9 thế kỷ qua. Đại học và quốc hội là sản phẩm của thời Trung cổ ở châu Âu. Người Hy Lạp hay La Mã đã có nền học thuật rất cao, nhưng họ chưa hề định chế hóa. Lịch sử đại học được đánh dấu bằng hai thời điểm khởi đầu quan trọng có tính cách mạng là thế kỷ 12, khi đại học được khai sinh ở châu Âu và thế kỷ 19, khi mô hình đại học mới Berlin ra đời. Cả hai loại đại học nêu trên đều là dấu mốc có ảnh hưởng quyết định lên dòng chảy của lịch sử nhân loại.
Cuốn sách được chia làm 3 phần: Lịch sử, Tư liệu lịch sử và Tiểu luận. Phần Lịch sử, tác giả đã hệ thống hóa một cách khoa học về đại học thời Trung cổ ở châu Âu cách nay 9 thế kỷ, sự ra đời của Đại học Berlin 1810, những ảnh hưởng của đại học thế giới và về đại học ở Việt Nam. Đây cũng là phần có rất nhiều những chi tiết thú vị về Trung Hoa và Nhật Bản du nhập đại học Đức…
Phần thứ 2 với tựa đề: Tư liệu lịch sử ngồn ngộn những tư liệu quý giá từ giáo dục cổ đại Hy Lạp đến giáo dục Đức… Phần Tiểu luận đề cập đến 3 đề tài. Thứ nhất là sự hình thành các giai đoạn tiến hóa của đại học Hoa Kỳ từ thời lập quốc đến thế kỷ 20. Thứ hai là tiểu sử tác giả Clark Kerr của cuốn sách Các công dụng của đại học. Theo tác giả thì Clark Kerr là “một tượng đài giáo dục đại học có lẽ có nhiều đóng góp nhất trong lịch sử”. Thứ ba là về College Hoa Kỳ, đây là phần chủ yếu nói về giáo dục đại học Mỹ.
Có lẽ hiếm có một cuốn sách nào gần đây gây được sự chú ý trong giới khoa học, giới nghiên cứu như cuốn sách này. Cuốn sách đã nhận được rất nhiều đánh giá tích cực của các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học như GS.Đàm Thanh Sơn, Đại học Chicago, Mỹ; GS.Lâm Quang Thiệp, Nguyên Vụ trưởng Vụ Đại học, Bộ GD- ĐT; GS.Trần Văn Thọ, Đại học Waseda, Tokyo, Nhật Bản; PGS.Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore...
Cuốn sách, như trang bìa đã giới thiệu trang trọng: “Đại học là một định chế giáo dục cao phát triển tri thức của châu Âu Kitô giáo Trung cổ, một hiện tượng rất đặc thù không một nền văn minh nào khác có, đánh dấu sự thức tỉnh tinh thần của một nền văn minh mới của thế giới sau đêm dài một ngàn năm vắng bóng học thuật, và tiếp nối truyền thống tri thức Hy Lạp cổ đại”.
Đây là một cuốn sách đúng như nhận định của GS.Đàm Thanh Sơn: “Cuốn sách ra đời đúng lúc việc chấn hưng giáo dục đại học trở thành một vấn đề nóng hổi ở Việt Nam”.
Trích dẫn
" Đại học là một định chế giáo dục cao phát triển tri thức của châu Âu Kitô giáo Trung cổ, một hiện tượng rất đặc thù không một nền văn minh nào khác có, đánh dấu sự thức tỉnh tinh thần của một nền văn minh mới của thế giới sau đêm dài một nghìn năm vắng bóng học thuật, và tiếp nối truyền thống tri thức Hy Lạp cổ đại.
Đại học là universitas, sự tập hợp tự nguyện của thầy và trò để phát triển tri thức cao, hoạt động độc lập và tự chủ.
Đại học mang trong mình dòng máu khoa học như lẽ sinh tồn. Không có khoa học, lý tính, không thể có đại học và xã hội phát triển, ngay cả châu Âu cũng có nguy cơ trở thành "châu Á", như Nietzsche và Max Weber nhận định.
Trong ba loại quyền: Vương quyền, Thần quyền và Trí quyền, thì Vương quyền ngày nay đã sụp đổ, Thần quyền không còn ảnh hưởng như một nghìn năm trước nữa, trong đó Trí quyền, mà đại học là sự tượng trưng, không ngừng ngày càng phát triển mạnh mẽ cho đến hôm nay."
2. Émile hay là về giáo dục - Jean-Jacques Rousseau
Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), nhà triết học, nhà văn, nhà sân khấu xuất thân từ một gia đình gốc Pháp, được nuôi dạy theo truyền thống Tin lành. Ông ham thích các tác phầm lãng mạn và các tác phẩm của Plutarque - sử gia Hy Lạp cổ đại. Sau nhiều năm học tập gian khổ và sau cuộc gặp gỡ có tính chất quyết định với bà de Warens, từ cuộc sống lang thang để lại những kỉ niệm đáng yêu, Rousseau đến với người bảo trợ ở Chambéry, rồi ở Charmettes, say mê học nhạc và đọc sách. Ở Paris, sau những thất vọng trong xã hội phù hoa ông kết bạn với Diderot và cộng tác với Từ điển bách khoa.
Với tư cách là một triết gia theo thuyết tự nhiên thần và nhị nguyên luận, ông đề cao tình yêu đối với thiên nhiên và có một quan niệm bi đát về xã hội, cho rằng xã hội văn minh làm hư hỏng con người. Tác phẩm Khế ước xã hội (1762) đã làm cho Rousseau có vai trò quan trọng trong triết học chính trị. Rousseau đã đi xa hơn Ch. L. Montesquieu và Voltaire trong việc bảo vệ tự do và bình đẳng trên cơ sở hoà giải quyền tự do cá nhân với những yêu cầu của đời sống xã hội. Theo ông, cần thiết lập một trật tự xã hội “tự nhiên”. Đây là một học thuyết về nhà nước mà nền tảng là sự hiệp thương giữa mọi người, nhân dân có quyền nắm chính quyền, lật đổ chúa phong kiến. Khế ước xã hội của Rousseau đã gợi ý cho việc soạn thảo Tuyên ngôn về nhân quyền - tác phẩm thể hiện quan điểm chính trị của cuộc cách mạng tư sản, có ảnh hưởng đến các nhà triết học lớn của Đức như I. Kant và J. G. Fichte.
Với tư cách là một nhà văn, ông nổi tiếng trên văn đàn với những tác phẩm như Julie hay nàng Héloise mới (1761), Thú nhận(1782) Những mơ mộng của một người dạo chơi cô độc (1772-1778). Những tác phẩm này thể hiện nhân cách phức tạp của Rousseau mà "những niềm say đắm dữ dội, trào dâng" luôn vấp phải thực tế và ràng buộc xã hội, bộc lộ rõ tư tưởng của Rousseau về quan hệ con người trong xã hội, tạo cơ sở cho sự hình thành tính tâm lí trong văn học châu Âu. Rousseau là đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa linh cảm trong lí luận văn học và sân khấu, là người có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ nền văn học Châu Âu không chỉ trong thời đại Khai sáng.
Émile hay là về giáo dục (Émile ou de l'éducation) là sự hoà quyện giữa văn chương và triết lý. Như tiêu đề của nó đã chỉ ra, đó là một chuyên luận về giáo dục, hay đúng hơn là một chuyên luận về "nghệ thuật hình thành con người". Tuy nhiên, cũng có thể coi đó là một tiểu thuyết xã hội - sư phạm với nhân vật hư cấu là cậu bé Émile. Việc giáo dục Émile chỉ nhằm một mục đích: đào tạo một con người tự do, có khả năng tự bảo vệ chống mọi sự gò ép khiên cưỡng; mà muốn đào tạo một con người tự do thì chỉ có một cách duy nhất là đối xử với họ như một sinh thể tự do, tôn trọng tự do của đứa trẻ. Chính ở chỗ này nảy sinh một sai lầm nghiêm trọng trong cách hiểu tác phẩm, tuy rằng Rousseau đã cẩn thận phân biệt rõ việc tôn trọng các nhu cầu tự nhiên của đứa trẻ (và tự do là nhu cầu đầu tiên trong các nhu cầu đó) với việc thỏa mãn các ham muốn, các ý thích thất thường của trẻ.
Bách khoa toàn thư Việt Nam có viết: “Cùng với những vấn đề về giáo dục được đặt ra, Rousseau phê phán nền giáo dục đương thời đàn áp nhân cách của trẻ, kể cả dùng nhục hình. Ông cho rằng bản tính con người vốn là thiện, nhưng đã bị xã hội bất bình đẳng huỷ hoại, nên cần xây dựng một nền giáo dục mới, phù hợp với thiên nhiên và bản tính vốn có của con người. Nhân vật chính là Émile - người được hưởng sự giáo dục toàn diện, trong đó thầy tôn trọng nhân phẩm trò, giáo dục trò bằng sự thuyết phục. Tác phẩm thể hiện lòng yêu trẻ tha thiết, tinh thần dân chủ và chủ nghĩa nhân văn, tôn trọng tự do và nhân phẩm con người.” Tư tưởng sư phạm của Rousseau được phản ánh trong các đề án cải cách giáo dục quốc dân của Pháp thời Cách mạng 1789 và có ảnh hưởng đến nhiều nhà tư tưởng - sư phạm, như J. H. Pestalozzi, A. S. Makarenko, J. Dewey v.v… Cho đến nay, Émile hay là về giáo dục vẫn là một tác phẩm được đọc nhiều nhất và phổ cập nhất về đề tài này. Đặc biệt ở Nhật Bản, người ta bắt buộc tất cả các giáo viên mầm non phải đọc cuốn sách này trước khi bước vào nghề.
Tác phẩm gồm các phần như sau:
Quyển I (Kể về giai đoạn bé Émile từ lúc ra đời đến lúc tập nói, tức là khoảng từ 0 đến 2 tuổi): Trong giai đoạn này, nhà giáo dục cần chăm sóc sức khỏe của bé, từ việc ăn uống đến việc tập luyện cử động tay chân và sử dụng các giác quan. Cần để ý tới các nhu cầu thiết yếu và những nhu cầu giả tạo có tính hình thức và bất lợi của bé.
Quyển II (Giai đoạn Émile từ 3 đến 12 tuổi): Chú bé Émile đang ở lứa tuổi nhi đồng. Sự phát triển của cậu bé luôn gắn với các trò chơi giáo dục, chơi mà học, các hình thức giải trí, trò chơi vận động… được nhà giáo dục áp dụng. Tuy nhiên cần để ý là trí óc của bé Émile còn non nớt, cho nên các hình thức giáo dục chủ yếu vẫn là cho nó chơi. Chú bé Émile không chỉ học tập qua sách vở mà quan trọng nhất là qua kinh nghiệm cuộc sống và môi trường xung quanh.
Quyển III (Giai đoạn Émile từ 12 đến 15 tuổi): Cậu bé Émile được giáo dục chẳng những qua sách vở, qua kinh nghiệm cuộc sống, mà còn được học kiến thức thực nghiệm hướng nghiệp cho nghề nghiệp tương lai. Cậu được học toán học, tự nhiên học, khoa học thực nghiệm để nắm vững các tri thức và ứng dụng vào đời sống. Cậu còn được học môn lịch sử nhân loại, môn tâm lý học ứng dụng để ứng xử mọi tình huống xảy ra trong đời sống hằng ngày. Cậu bé Émile đang đi vào tuổi trưởng thành cho nên việc phát triển tư duy logic, tư duy lý luận, phân tích và tổng hợp… được các nhà giáo dục coi trọng.
Quyển IV (15 đến 20 tuổi: tuổi của lý trí và những đam mê): Cậu bé cần được hưởng nền giáo dục đạo đức (trong đó có cả giáo dục giới tính, giáo dục thẩm mỹ…) và giáo dục tôn giáo để bước vào thế giới của người lớn mà không ngỡ ngàng, vấp váp.
Quyển V (Émile 20 đến 25 tuổi - độ tuổi khôn lớn và hôn nhân): Rousseau kể chuyện về Sophie, người sẽ là vị hôn thê tương lai của Émile. Như vậy Rousseau dành riêng quyển cuối cùng này để nói về giáo dục các em gái.
Dịch giả Lê Hồng Sâm
Dịch giả Lê Hồng Sâm sinh năm 1930, từng dạy tại khoa Ngữ văn trường Đại học Tổng hợp, Chủ nhiệm bộ môn văn học Pháp. Bà đã tham gia vào nhiều hoạt động nghiên cứu và dịch thuật các tác phẩm của Pháp, chẳng hạn như là đồng chủ biên Tuyển văn học Pháp thế kỷ XIX, NXB Thế giới, 1997 (sách song ngữ), chủ biên dịch và giới thiệu Tấn trò đời (Balzac), 16 tập, NXB Thế giới, 1999-1001. Riêng về sách dịch, bà đã dịch và giới thiệu trên dưới 20 tác phẩm văn học Pháp tới bạn đọc Việt Nam, mà gần đây nhất là các cuốn Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa (Đới Tư Kiệt), NXB Văn học, 2003; Nữ hoàng (Sơn Táp), NXB Hội nhà văn, 2007; Bản mệnh của lý thuyết (Antoine Compagnon), NXB Đại học Sư phạm, 2006. Có thể nói, bà đã có nhiều đóng góp nghiêm túc trong việc trao đổi văn hoá giữa hai nước Pháp Việt.
Dịch giả Trần Quốc Dương
Sinh năm 1935
Nghề nghiệp: giáo viên trung học, trưởng phòng nghiên cứu giáo dục so sánh, Viện Khoa học Giáo dục (1979-1990), Tiến sĩ Giáo dục học (Berlin 1984). Đã từng tham gia dịch bộ Tấn trò đời (Balzac), và một số sách thiếu nhi.
3. Những Mục Tiêu Của Giáo Dục & Các Tiểu Luận Khác
Một triết lý giáo dục gần gũi với nhu cầu của thế kỷ 21 và dân tộc Việt Nam ngày nay
Coi việc xuất bản Những mục tiêu của giáo dục, bản dịch tiếng Việt của tác phẩm kinh điển The Aims of Education and Other Essays (New York, Macmillan, 1929) là sự kiện quan trọng trong hoạt động của mình.
Đây không phải là tựa sách đầu tiên của chúng tôi về giáo dục nói chung, giáo dục đại học nói riêng. Nhưng theo tôi, nếu có tác giả nào, từ cách đây gần 80 năm đã chủ trương một triết lý giáo dục gần gũi với nhu cầu của thời đại chúng ta vào đầu thế kỷ 21 và cần thiết cho dân tộc Việt Nam ngày nay, đó chính là nhà toán học - triết gia người Anh Alfred North Whitehead (1861-1947). Là đồng tác giả với Bertrand Russell của bộ sách ba quyển Nguyên lý toán học (Principia Mathematica, 1910, 1912, 1913), ông đã đóng góp có ý nghĩa vào luận lý học và thần học thế kỷ 20. Những năm từ 1910 tới 1924, ông nghiên cứu nhiều về triết học khoa học và triết học giáo dục. Ông là giáo sư triết tại đại học Harvard từ 1924 đến 1937, khi ông nghỉ hưu ở tuổi 76. The Aims of Education tập hợp một số bài giảng của ông trong những năm 1912-1928 nói về mục tiêu và thực hành giáo dục.
“Giáo dục bằng những ý tưởng trơ ì không chỉ vô ích, mà trên hết nó còn có hại”
Whitehead gọi là ý tưởng trơ ì (inert ideas) “những ý tưởng chỉ đơn thuần được nhồi nhét vào trong tâm trí mà không được sử dụng, không được kiểm định và cũng không được kết hợp lại một cách mới mẻ”.
Có lẽ tác giả đã khái quát được đặc điểm thường thấy của mọi nền giáo dục Đông Tây kim cổ khi cho rằng “giáo dục trong quá khứ đã bị những ý tưởng trơ ì tiêm nhiễm tới tận rễ”. Bởi có nền giáo dục nào mà dễ dàng tránh được nguy cơ coi trí tuệ là dụng cụ cần được mài giũa hay là kho chứa những khối tri thức được phân loại ngăn nắp (Robert J. Mulvaney)? Có thầy giáo nào mà không ít nhiều tự cho mình có sứ mạng, trách nhiệm và quyền lực đưa người học vào khuôn khổ kỷ luật, lấy quyển sách giáo khoa và bắt học sinh học nó, hay, nói như Whitehead, “bơm vào đầu óc của lớp học một lượng kiến thức trơ ì nào đó”? Để làm gì ư? Câu trả lời “truyền thống” là phải mài sắc trí tuệ trước khi sử dụng nó. Vậy học cho biết cách giải phương trình bậc hai, thậm chí biết tiểu sử một nhà văn, nhà thơ sống trước mình nhiều thế kỷ, thuộc nằm lòng một đoạn thơ hoặc chiến công của các vị anh hùng cứu nước, v. v… đều có thể được coi là rèn trí tuệ hay “trang bị” tri thức hữu dụng (và nếu không hữu dụng trực tiếp thì cũng có tác dụng rèn công cụ tư duy)… sau này, không biết là chừng nào. Chính những hiểu biết rời rạc mà người học phải thụ động tiếp nhận đó, Whitehead gọi chúng là ý tưởng trơ ì.
Kiểu quan niệm trí tuệ như một “công cụ chết” theo Whitehead có thể có từ thời Hy Lạp cổ đại (hay nói trong môi trường văn hóa quen thuộc hơn với chúng ta, từ khi thầy Khổng dạy “học nhi thời tập chi”, học là tập đi tập lại hoài cho thuộc, cho nhuần nhuyễn những lời dạy thánh hiền) và được nhiều thế hệ nhất mực coi là chân lý. Whitehead không ngần ngại coi quan niệm đó là “một trong những quan niệm nguy hiểm, sai lầm và tai hại nhất từng được đưa vào lý thuyết giáo dục” (tôi nhấn mạnh, BTP). Đối với ông, “trí tuệ không bao giờ là thụ động; nó là một hoạt động không ngừng nghỉ, tinh tế, có tính thụ nhận, đáp ứng lại với những kích thích. Bạn không thể trì hoãn đời sống của nó cho đến khi bạn đã mài nó bén nhọn”.
Vì vậy, đối với giáo dục phổ thông, ông chủ trương “không dạy quá nhiều môn học” và “dạy cái gì thì phải dạy cho thấu đáo”. Dạy ít, nhưng là những nội dung quan trọng, mà người học dù là trẻ nhỏ cũng biến được tri thức đó thành của mình và “biết cách áp dụng chúng ngay lập tức trong những tình huống của cuộc đời thực”. Điều đó làm cho tri thức thực sự hữu dụng; bản chất của sự thông hiểu là phải hữu dụng. Nó cũng tạo nên hứng thú học tập, vì người học “cảm nghiệm được niềm vui của sự khám phá”.
Ông định nghĩa “giáo dục là sự sở đắc nghệ thuật sử dụng tri thức”. Học mà không hiểu, hoặc không dùng được hiểu biết của mình thì càng học nhiều càng có hại. Thông điệp này đúng cho muôn thuở. Nhưng đối với thời hiện đại, khi khối lượng lớn những tri thức mới phát triển với tốc độ cực nhanh, thì cám dỗ “nhồi nhét” càng khó cưỡng lại biết chừng nào, dù ai cũng thấy hiệu quả là vô vọng. Đối với văn hóa Á Đông mà Việt Nam chúng ta là bộ phận, định nghĩa của Whitehead càng trái ngược với nhiều tín điều ăn sâu. Trình độ học thức không đo ở khối lượng kiến thức, mà ở năng lực, nghệ thuật dùng kiến thức đó trong cuộc sống. Người học không phải là cái bình chứa để người dạy rót vô, hay một búp măng cần ra sức uốn sao cho thẳng theo khuôn mẫu, mà là một tư duy độc lập, tự do. Tập quán tôn trọng di sản tiền nhân, tuyệt đối hóa giá trị của truyền thống, hướng về quá khứ để bảo tồn cũng bị thách thức bởi khẳng định mạnh mẽ của Whitehead: “Cách sử dụng duy nhất cho một tri thức về quá khứ là để trang bị cho chúng ta hiểu thời hiện tại. Không có gì nguy hại cho những tâm trí non trẻ hơn việc coi khinh thời hiện tại. Thời hiện tại bao hàm tất cả những gì đang tồn tại. Nó là mảnh đất thần thánh; vì nó vừa là quá khứ vừa là tương lai.”
4. Triết học giáo dục - Philosophy of Education
Trong cuốn sách “Triết học giáo dục”, Nel Noddings giới thiệu đến bạn đọc các phân môn và các chủ đề chính của triết học, cho thấy chúng quan trọng và cần thiết như thế nào đối với các vấn đề của giáo dục, đồng thời cũng sẽ chọn lọc một số vấn đề đang được quan tâm. Mục đích không gì khác hơn là giúp bạn đọc làm quen với sự nghiêm ngặt của lập luận triết học cũng như tính phức tạp của các vấn đề trong giáo dục.
Bốn chương đầu tiên sẽ cung cấp cho bạn hiểu biết nhất định về những câu hỏi giáo dục vẫn còn quan trọng kể từ Socrates và trình bày những phương cách mà các triết gia đã tiếp cận những câu hỏi ấy. Sau một khảo sát ngắn về lịch sử của các câu hỏi như vậy và sự thảo luận về chúng trước thế kỉ XX, trong chương II tác giả đi vào tư tưởng của John Dewey. Chương này tiếp tục sự phát triển lịch sử ấy, nhưng nó cũng ấn định một giai đoạn cho tranh luận hiện nay và giới thiệu các phương pháp của tự nhiên luận dụng hành (pragmatic naturalism). Ở chương III và IV tác giả bàn về các phương pháp hay những cách tiếp cận khác mà các nhà triết học về giáo dục đương đại đang sử dụng: triết học phân tích, thuyết hiện sinh, hiện tượng học, lý thuyết phê phán, thông diễn học và thuyết hậu hiện đại.
Sau các chương dẫn nhập, cuốn sách xét đến những vấn đề giáo dục chuyên biệt được nghiên cứu một cách triết học – các vấn đề giáo dục mang những tiêu đề chung như nhận thức luận, đạo đức học, triết học về khoa học,… Cách sắp xếp này chưa phải là thỏa đáng hoàn toàn - ngay cả đối với tác giả - bà vẫn rất mong một ngày nào đó sẽ xóa bỏ được những phân chia quá sâu giữa các phân ngành và những phân ngành nhỏ. Tuy vậy, tiếp nối mạch trình bày, Nel Noddings vẫn cho thấy cách sắp xếp này vẫn có những ưu thế nhất định cho một thảo luận đầy đủ. Đến cuối sách, bạn đọc sẽ nhận ra tại sao những ranh giới cứng nhắc phải được xóa bỏ. Trong khi, cũng cần xem xét những gì mà các nhà triết học đã đạt được bên trong những ranh giới ấy và tại sao vẫn còn rất nhiều việc phải giải quyết.
Chương cuối cùng “Thuyết nữ quyền, triết học và giáo dục” là tóm tắt các chương trước từ viễn tượng nữ quyền. Các văn bản triết học vào đầu thế kỉ XX thường kết luận với một chương trình bày phát biểu về những niềm tin triết học của tác giả. Chương cuối cùng trong sách này cũng được viết theo tinh thần như vậy. Nó nhắc nhở bạn đọc về những luận cứ đã được bàn và thúc đẩy sự tìm kiếm xa hơn.
Sách Khai Minh trân trọng giới thiệu.
Bước 1: Truy cập website và lựa chọn sản phẩm cần mua để mua hàng
Bước 2: Click và sản phẩm muốn mua, màn hình hiển thị ra pop up với các lựa chọn sau
Nếu bạn muốn tiếp tục mua hàng: Bấm vào phần tiếp tục mua hàng để lựa chọn thêm sản phẩm vào giỏ hàng
Nếu bạn muốn xem giỏ hàng để cập nhật sản phẩm: Bấm vào xem giỏ hàng
Nếu bạn muốn đặt hàng và thanh toán cho sản phẩm này vui lòng bấm vào: Đặt hàng và thanh toán
Bước 3: Lựa chọn thông tin tài khoản thanh toán
Nếu bạn đã có tài khoản vui lòng nhập thông tin tên đăng nhập là email và mật khẩu vào mục đã có tài khoản trên hệ thống
Nếu bạn chưa có tài khoản và muốn đăng ký tài khoản vui lòng điền các thông tin cá nhân để tiếp tục đăng ký tài khoản. Khi có tài khoản bạn sẽ dễ dàng theo dõi được đơn hàng của mình
Nếu bạn muốn mua hàng mà không cần tài khoản vui lòng nhấp chuột vào mục đặt hàng không cần tài khoản
Bước 4: Điền các thông tin của bạn để nhận đơn hàng, lựa chọn hình thức thanh toán và vận chuyển cho đơn hàng của mình
Bước 5: Xem lại thông tin đặt hàng, điền chú thích và gửi đơn hàng
Sau khi nhận được đơn hàng bạn gửi chúng tôi sẽ liên hệ bằng cách gọi điện lại để xác nhận lại đơn hàng và địa chỉ của bạn.
Trân trọng cảm ơn.