Combo (2 Cuốn Sách) Luân Lý Học + Đạo Đức Học (Bìa Cứng)
Tác giả: Aristotle, Baruch Spinoza
Hình thức: Bìa cứng, 16 x 24 cm
Nhà xuất bản: Đà Nẵng, NXB Văn Học
Thể loại: Đạo đức học
Combo (2 Cuốn Sách) Luân Lý Học + Đạo Đức Học (Bìa Cứng)
1. Luân Lý Học (Bìa Cứng) Aristotle
“Luân lý học” (Ἠθικὰ Νικομάχεια) là một trong những trước tác quan trọng bậc nhất của Aristotle, đóng vai trò nền tảng cho triết học đạo đức của phương Tây. Chủ yếu và trọng tâm của tác phẩm là một luận thuyết về Giáo dục Đạo đức. Nó thảo luận đặc biệt về những phẩm chất nhân văn đáng ngưỡng vọng phù hợp với một cuộc sống của một cộng đồng văn minh có tổ chức, giúp một người trở thành một “công dân tốt” và xem xét cách những phẩm chất đó có thể được nuôi dưỡng hoặc tạo ra và phòng tránh những phẩm chất trái ngược.
Tác phẩm được coi là nền tảng cho các vấn đề đạo đức học, tâm lý học và siêu hình học sau này. Hiện nay, “Luân lý học” của Aristotle vẫn là một trong những tác phẩm kinh điển của Triết học Đạo đức, và giá trị của nó vẫn chưa hề có dấu hiệu bị phai mờ
Trong những khẳng định rộng về sự xuất sắc của con người và những phẩm chất của một cuộc sống tốt đẹp, Aristotle định nghĩa các phương pháp và thuật ngữ vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh của tư duy đạo đức đương đại. Chẳng hạn, Aristotle đưa ra triết lý luân lý của mình như một ví dụ về tư duy “mục đích luận”, trong đó các hành động của con người nhắm đến mục tiêu “cuối cùng” và “tự túc” (hay telos) của một cuộc sống tốt. Từ chối một số mục tiêu mà mọi người thường coi là mục tiêu của một cuộc sống tốt đẹp của con người – chẳng hạn như vui thú, sức khỏe hoặc sự giàu có – Aristotle khẳng định rằng các telos thực sự của hành vi con người là eudaimonia của việc sống tốt. Bên cạnh cách tiếp cận dựa trên telos này, Aristotle cũng đưa ra khái niệm về tình trạng lý tưởng của con người là một sự trung gian hoặc “trung đạo” giữa hai thái cực thiếu và thừa. Hành vi can đảm, chẳng hạn, nằm giữa thái cực của tính hèn nhát và liều lĩnh. Tóm lại, sự xuất sắc của con người dường như là một hoạt động nhắm đến số lượng đúng đắn của một vài trạng thái phẩm hạnh nhất định: hào phóng đúng mức, tiết chế đúng mức, v.v
Tất cả những hành vi đạo đức này, như Aristotle lập luận, tốt nhất là được thực hiện như một loại “thói quen” mà chúng ta phải tích cực thực hành, và ông đặt nền móng cho những thói quen đạo đức này ở các khái niệm cân nhắc và lựa chọn. Bởi vì cuộc sống đưa ra cho chúng ta những câu hỏi mà hầu như không bao giờ có câu trả lời chính xác về mặt toán học hoặc thậm chí có thể dự đoán được, người ta phải vật lộn với những lựa chọn khó khăn, trong số đó có thể không có một lựa chọn rõ ràng nhất. Lấy một ví dụ quen thuộc với người dân New York: chúng ta có nên đưa tiền cho những người ăn xin trên tàu điện ngầm không và nếu có thì bao nhiêu? Khả năng lựa chọn tốt này cấu thành nên quan niệm của Aristotle về “trí tuệ thực tiễn”, hay bản thân, đó là một đức tính mà Aristotle nghĩ rằng chúng ta có thể thực hành. Tuy nhiên, Luân lý học không khuyên chúng ta nên đi qua cuộc sống trong trạng thái lo lắng thường trực về việc liệu chúng ta có đưa ra lựa chọn chính xác hay không bất cứ khi nào chúng ta phải đối mặt với những quyết định đạo đức nhỏ. Thay vào đó, bằng cách đưa ra một sự khác biệt cơ bản giữa việc thực hiện các hành vi tự bản thân chúng là luân lý và thực hiện các hành vi theo một xu hướng luân lý vững chắc và quen thuộc, Aristotle muốn độc giả của mình trau dồi và thực hành các thái độ và hành vi mà ở đó những lựa chọn luân lý xuất hiện không quá “tự động”mà có thể là chào đón – những lựa chọn chúng ta đưa ra ngay từ những xu hướng và ước vọng của bản thân.
Ngay cả khi Aristotle bắt đầu với những chủ đề dường như rõ ràng nhất có thể áp dụng cho hành vi đạo đức của một cá nhân – lòng can đảm hay tính khí của anh ta, những xu hướng hay những lựa chọn có chủ ý của anh ta, chẳng hạn – Luân lý học đã qua mười quyển của nó chuyển dần sang những chủ đề mang tính liên cá nhân hơn về bản chất. Ví dụ, trong quyển Năm, Aristotle chuyển sang chủ đề công lý, một hoạt động mà ông chia thành hai thể loại: phân phối, phân tích xem những nhóm người khác nhau xứng đáng với điều gì và điều chỉnh, phân tích cách chúng ta có thể khắc phục những tình huống mất cân bằng trong đó sự bất chính đã xảy ra. Cũng trong quyển Năm, Aristotle chuyển sang các vấn đề về công chính pháp lý: làm thế nào, ông hỏi, chúng ta có thể mong đợi tạo ra một luật có thể áp dụng cho các sự kiện khác nhau, không thể đoán trước của hoạt động của con người? Không chỉ cung cấp một định nghĩa đơn giản về ý nghĩa của “công chính” – một thuật ngữ trọng tâm của nhiều văn bản nằm trong giáo trình Văn minh Đương đại – Aristotle nhấn mạnh trong cuộc thảo luận về sự công chính của ông về niềm tin đa dạng và dễ uốn nắn của lý trí luân lý
Những quyển cuối cùng của Luân lý học tiếp tục nhấn mạnh sự quan tâm của Aristotle về các vấn đề về mối quan hệ liên cá nhân. Quyển Tám và Chín, chẳng hạn, bàn về tầm quan trọng của tương giao, chủ đề duy nhất trong văn bản được giải quyết bằng hẳn hai quyển. Bắt nguồn từ những mối quan tâm về các loại liên kết tốt nhất giữa con người, Aristotle chuyển sang chủ đề chính trị rộng lớn hơn trong quyển cuối cùng của mình, thường được xem là một cuộc thảo luận chuyển tiếp vào Chính trị luận, một văn bản khác thuộc giáo trình Văn minh Đương đại. Ở đây Aristotle thừa nhận rằng hành vi luân lý rất khó đạt được và không phải mọi công dân đều có thể đạt được eudaimonia. Trước sự gần như không thể tiếp cận này của tính siêu việt của con người, ông cho rằng thành bang phải đóng vai trò tích cực trong việc trau dồi đạo đức công dân – ở một mức độ nào đó, con người trở nên tốt bằng cách tuân thủ luật pháp được xây dựng tốt. Những chủ đề cuối cùng này cho thấy bản chất kép của cuốn chuyên luận này của Aristotle: những gì khởi đầu như một cuộc thảo luận về tính cách cá nhân và những hành vi theo thói quen cuối cùng lại hướng về các khuyến nghị xã hội sẽ được bàn chủ yếu trong cuốn Chính trị luận
Ngay cả khi Aristotle thấy mình bất hòa với Plato ở nhiều khía cạnh, cuốn sách cuối cùng của Đạo đức học gợi nhớ lại một số chủ đề của cuốn sách Cộng hòa của Plato, nơi thành bang lý tưởng – mà Plato gọi là kallipolis, nhìn nhận sự xuất sắc của chính nó khi được kết hợp chặt chẽ với nó sự xuất sắc của mỗi công dân. Dường như cũng nghịch lý như vậy, Aristotle kết thúc Luân lý học bằng cách cho rằng cuộc sống tốt nhất là cuộc đời “chiêm nghiệm”, một kết luận kỳ lạ cho một cuốn sách vốn dành cho cuộc sống của con người, thường nhấn mạnh vào khía cạnh xã hội và cá nhân của nó. Với cách trình bày đậm tính thuật ngữ về phẩm hạnh và những mối quan tâm của nó đến luân lý nhưng một mối quan tâm của cả cá nhân và xã hội, Luân lý học cho chúng ta thấy một quan điểm rằng hoạt động của con người không thể được cô đọng thành một khẩu hiệu dễ hiểu hoặc một bộ quy tắc đạo đức. Tính không thể giản tiện của đạo đức con người, như đã chỉ ra, dường như là một yếu tố chính trong lập luận của Aristotle.
2. Đạo Đức Học (Bìa Cứng)
Tác phẩm nổi tiếng nhất của Spinoza là Đạo đức học chỉ được xuất bản sau khi ông qua đời. Quan điểm của ông đối lập với Nhị nguyên tâm trí - cơ thể của Descartes, ngay lập tức đưa ông trở thành một trong những triết gia phương Tây quan trọng nhất. Georg Hegel từng nói "Spinoza là điểm thử thách của triết học hiện đại, tới mức ta cần phải thừa nhận: Hoặc ta theo Spinoza, hoặc ta không phải là triết gia."Thông qua những thành tựu triết học cùng tính cách con người.
Baruch Spinoza hay Benedict Spinoza (1632-1677) là một triết gia lớn người Hà Lan, tạo nên ảnh hưởng đáng kể cho sự phát triển của triết học phương Tây thế kỷ XVII-XVIII. Spinoza có nhiều đóng góp cho sự phát triển của triết học phương Tây trên các phương diện bản thể luận, nhận thức luận, đạo đức học. Ông viết nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó tiêu biểu nhất là Khảo luận về chính trị - thần học (Latin: Tractatus Theologico-Politicus) và tác phẩm đồ sộ Đạo đức học (Latin: Ethica).
Dưới góc độ của bản thể luận và chịu ảnh hưởng bởi thần học, Spinoza vẫn cho rằng Thiên Chúa chính là bản thể (substance), là tồn tại đích thực của thế giới. Nhưng ông không tán đồng với quan niệm của thần học Ki-tô giáo cho rằng Thiên Chúa là một Đấng Sáng thế có trước và tạo tác nên thế giới từ hư vô.
Ngược lại, ông lý giải rằng Thiên Chúa tự đồng nhất chính mình với Tự nhiên, Thiên Chúa chính là toàn bộ Tự nhiên nói chung. Thiên Chúa là nguyên nhân tự thân, nghĩa là Ngài tự vận động và tự biểu hiện chính mình trong vô hạn các sự vật, hiện tượng thuộc về Tự nhiên. Ý chí thần thánh hay quyền năng của Thiên Chúa không tách biệt với Tự nhiên mà phản ánh trong chính những quy luật tự nhiên mang tính tất yếu và tính phổ biến. Với những quan niệm này, thực tế là Spinoza đã phủ nhận Thiên Chúa với vai trò một Đấng Sáng thế, phủ nhận luôn cả sự tồn tại của cõi siêu nhiên, và ông gián tiếp khẳng định rằng Tự nhiên là cái tự thân tồn tại, vĩnh cửu và vận hành theo những quy luật thuộc về chính nó. Tư tưởng đồng nhất Thiên Chúa với Tự nhiên của Spinoza đã góp phần hoàn thiện cơ sở lý thuyết cho một khuynh hướng tư tưởng triết học - thần học có tầm ảnh hưởng đáng kể: đó là phiếm thần luận (pantheism).
Trên phương diện nhận thức luận và đạo đức học, Spinoza cũng có những quan điểm đáng chú ý. Đối với nhận thức luận, Spinoza nêu lên rằng “một ý niệm đúng thì phải hài hòa với đối tượng của ý niệm đó”, nghĩa là tri thức đúng đắn thì nó phải đúng với đối tượng, phù hợp với đối tượng [khách quan].
Về đạo đức học, Spinoza chủ trương rằng: cảm xúc và lý trí là cơ sở của hành vi đạo đức, nếu chúng ta sống theo sự hướng dẫn của lý trí, thì chúng ta sẽ có những cảm xúc tích cực, những cảm xúc này sẽ thôi thúc chúng ta làm điều tốt và ủng hộ người khác làm điều tốt.
Có thể nói, Spinoza đã để lại dấu ấn của riêng mình trong dòng chảy tư tưởng của nhân loại. Đặc biệt, phiếm thần luận của Spinoza đã được các nhà tư tưởng thế hệ sau tiếp nhận theo những cách khác nhau và vẫn còn tạo nên nhiều cuộc tranh luận trong lĩnh vực thần học và triết học trên thế giới.
![]()
Bước 1: Truy cập website và lựa chọn sản phẩm cần mua để mua hàng
Bước 2: Click và sản phẩm muốn mua, màn hình hiển thị ra pop up với các lựa chọn sau
Nếu bạn muốn tiếp tục mua hàng: Bấm vào phần tiếp tục mua hàng để lựa chọn thêm sản phẩm vào giỏ hàng
Nếu bạn muốn xem giỏ hàng để cập nhật sản phẩm: Bấm vào xem giỏ hàng
Nếu bạn muốn đặt hàng và thanh toán cho sản phẩm này vui lòng bấm vào: Đặt hàng và thanh toán
Bước 3: Lựa chọn thông tin tài khoản thanh toán
Nếu bạn đã có tài khoản vui lòng nhập thông tin tên đăng nhập là email và mật khẩu vào mục đã có tài khoản trên hệ thống
Nếu bạn chưa có tài khoản và muốn đăng ký tài khoản vui lòng điền các thông tin cá nhân để tiếp tục đăng ký tài khoản. Khi có tài khoản bạn sẽ dễ dàng theo dõi được đơn hàng của mình
Nếu bạn muốn mua hàng mà không cần tài khoản vui lòng nhấp chuột vào mục đặt hàng không cần tài khoản
Bước 4: Điền các thông tin của bạn để nhận đơn hàng, lựa chọn hình thức thanh toán và vận chuyển cho đơn hàng của mình
Bước 5: Xem lại thông tin đặt hàng, điền chú thích và gửi đơn hàng
Sau khi nhận được đơn hàng bạn gửi chúng tôi sẽ liên hệ bằng cách gọi điện lại để xác nhận lại đơn hàng và địa chỉ của bạn.
Trân trọng cảm ơn.