TÓM TẮT NỘI DUNG CUỐN “GIÁM SÁT VÀ TRỪNG PHẠT” CỦA MICHEL FOULCAULT
10/06/2022
Nguồn: Nxb. Tri Thức
Cuốn GIÁM SÁT VÀ TRỪNG PHẠT: NGUỒN GỐC NHÀ TÙ (Surveiller et Punir: Naissance de la Prison) được xuất bản lần tại Pháp vào năm 1975 là một di sản quan trọng, và có lẽ, di sản chính yếu của sự nghiệp nghiên cứu đồ sộ của Michel Foucault. Ảnh hưởng to lớn của của Foucault vẫn còn tiếp diễn, những ý tưởng của ông đã và đang được phổ biến rộng rãi trong một số ngành khoa học như nhân học, lịch sử, triết học…Michel Foucault, rõ ràng là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thế giới đương đại.
Dựa trên nguồn tư liệu phong phú và bằng những luận cứ ở tầm lý luận sâu sắc, cuốn "Surveiller et Punir: Naissance de la prison " đã vẽ ra chi tiết cái hành trình tiến hóa lịch sử của các cơ sở nhà tù và các hình thức trừng phạt từ giữa thế kỷ 18 đến giữa thế kỷ 19. Trong hành trình này, nhiều sự đứt gẫy và bước nhảy vọt đã xảy ra cả trong gần quãng thời gian một thế kỷ là khoảng cách giữa 2 cột mốc: Một bên là phô trương quyền lực nhằm mục đích trả thù mang nặng tính cá nhân của các vị vua và cột mốc kia là sự hình thành một hệ thống xã hội để giám sát, ràng buộc, kiểm soát, kiểm tra và giáo dục tù nhân, cũng như trong cách thức mà các biện pháp kỷ luật trừng phạt được thiết kế và quản lý đối với người phạm tội. Cuốn sách, trong khi đặc biệt tập trung vào phân tích nhà tù, cũng ám chỉ đến các cơ sở kỷ luật khác, chẳng hạn như trường học / trại tị nạn, trại trẻ mồ côi, cơ sở cải huấn, bệnh viện, doanh trại và nhà máy, nơi các công nghệ hành vi tương tự đã được áp dụng.
Cuốn sách được cấu trúc thành bốn phần.
Phần một: Nhục hình
Ở phần đầu của cuốn sách, Foucault dẫn dắt người đọc qua một mô tả tàn bạo và kinh hoàng về cảnh hành quyết công khai kẻ sát nhân tên là Damien, bị kết án vào năm 1757. Nỗi đau khủng khiếp và hình ảnh kinh hoàng gây ra trên "cơ thể bị kết án" đã làm sáng tỏ sự tàn bạo của hệ thống hình phạt quá khứ, bởi vì các hình phạt thể xác được thiết kế theo nghi thức “trình diễn của đoạn đầu đài ". Từ thế kỷ 19, theo Foucault, đã xuất hiện xu hướng từ bỏ các vụ hành quyết và tra tấn công khai, mở đường cho sự ra đời của "thời đại mới của tư pháp hình sự". Cơ thể và nỗi đau thể xác giờ đây không còn là đối tượng cuối cùng của các biện pháp trừng phạt nữa, bởi vì các biện pháp trừng phạt- được coi là chiến thuật chính trị - giờ đây thực hiện một chức năng xã hội phức tạp hơn, hoạt động như những công cụ hữu ích nhằm tạo ra hiệu ứng mang tính răn đe tích cực trong xã hội. Thông qua những phân tích đầy tinh tế, độc giả sẽ nhận ra sự chuyển hóa của các phương pháp trừng phạt, sự thay đổi vai trò giữa thể xác và linh hồn, khi các kỹ thuật sức mạnh cụ thể được xác lập nhằm thống trị, giám sát và khuất phục thể xác thông qua linh hồn. Việc thực hành các trừng phạt vì thế phải được giải quyết lại bên ngoài cơ thể, nhằm mục đích bắt giữ linh hồn của tội phạm. Trong sự biến thái này, cơ thể phạm nhân giờ đã “trực tiếp tham gia vào một lĩnh vực chính trị” và rằng "đầu tư chính trị vào cơ thể có liên quan tới việc sử dụng kinh tế của nó, cơ thể chỉ trở thành một lực lượng hữu ích khi nó vừa là một cơ quan sản xuất vừa là một cơ quan phục tùng”. Sự trừng phạt do quyền lực được áp đặt lên cơ thể - vì thế “được hình thành như một chiến lược”
Phần hai : Trừng phạt
Mở đầu phần thứ hai, Foucault giới thiệu với độc giả những cải cách có ảnh hưởng đến các phương thức trừng phạt, chẳng hạn như “Thay vì là trả thù, công lý hình sự đã hướng về mục tiêu là sự trừng phạt ”.Việc nhân bản hóa và điều biến các hình phạt đã đưa chúng lại gần hơn với bối cảnh kinh tế - xã hội mà hành động tội phạm trở nên ít bạo lực/đẫm máu hơn và liên quan nhiều hơn đến của cải và quyền sở hữu trong xã hội. Đứng trước tình trạng các xâm hại bất hợp pháp đối với tài sản cũng như đối quyền và lợi ích chính đáng ngày càng phổ biến, cũng cần phải thiết lập các thang hình phạt hợp lý đối với tội phạm chiếm đoạt tài sản và lừa đảo, chứ không chỉ duy nhất là những hình phạt dành những tội ác đẫm máu từng thống trị trong xã hội. Do đó, trong nền kinh tế mới này đã xuất hiện một nghệ thuật trừng phạt mới, như một nỗ lực nhằm cố gắng đạt được các thực hành trừng phạt năng động hơn và hiệu quả hơn.
Người đọc sẽ được củng cố vững chắc niềm tin vào nhận định này sau khi đọc những gì mà Foucault đã tổng kết lại về "raison d'être" (lý do tồn tại) của các cải cách hình sự trong thế kỷ 18: Một hệ thống hình sự phải được thiết kế như một cơ chế nhằm quản lý các hành vi vi phạm pháp luật đa dạng, chứ không phải để thủ tiêu hoàn toàn chúng. Việc cập nhật đối tượng và xác định các chiến thuật mới để tiếp cận mục tiêu đã trở nên tinh xảo hơn đồng thời cũng phổ biến hơn trong xã hội . Tìm ra các kỹ thuật mới để điều chỉnh hình phạt và điều chỉnh hiệu ứng của nó. Đặt ra các nguyên tắc mới để chính quy hóa, tinh chỉnh, phổ cập nghệ thuật trừng phạt. Đồng nhất hóa ứng dụng của nó. Giảm chi phí kinh tế và tổn thất chính trị, tăng tính hiệu quả bằng cách nhân rộng các chu trình của nó. Nói ngắn gọn đó là một nỗ lực để tạo ra một nền kinh tế mới và một công nghệ mới để củng cố khả năng trừng phạt của quyền lực
Quyền trừng phạt đã chuyển từ sự trả thù mang tính cá nhân của quân vương hoặc các nhà lãnh đạo tối cao sang sự tự bảo vệ của xã hội, và các thực hành trừng phạt mới được định hướng lại theo khuynh hướng phòng ngừa tội phạm, chứ không còn hướng tới việc khôi phục trật tự. Do đó, Foucault đã tổng kết các quy tắc sau đây tạo cơ sở để xây dựng thứ nghệ thuật trừng phạt mới này:
Trong nghệ trừng phạt mới này
- mức độ nghiêm khắc được điều chỉnh chính xác hơn khi ban hành các hình phạt;
- hình phạt có vai trò tượng trưng để ngăn chặn tội phạm;
- các hình phạt phải làm sao để có tác động lan tỏa và gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ hơn đối với xã hội nhiều hơn là chính đối với kẻ tội phạm;
- các hình phạt phải có khả năng gắn kết một cách rõ ràng minh bạch một tội phạm cụ thể với một hình phạt cụ thể;
- hình phạt sẽ đòi hỏi một hệ thống bằng chứng và minh bạch hơn trong hoạt động xác minh các hành vi phạm tội trong thực tiễn;
- cần thiết lập một phân loại rõ ràng về các hành động bất hợp pháp để không cho phép bất cứ ai có thể trốn thoát khỏi sự trừng phạt của công lý bởi tình trạng thiếu những chế tài thích hợp.
Điều nổi lên từ những ý tưởng này là đã xuất hiện các biện pháp giám sát và kỷ luật đóng vai trò là “biển báo chướng ngại vật” mang tính cảnh báo minh họa cho con đường pháp lý mà toàn thể xã hội phải tuân theo. Foucault tóm tắt các điều kiện chính mà các biển báo chướng ngại vật phải tôn trọng để có hiệu quả:
(1) các biện pháp trừng phạt phải ít độc đoán nhất có thể;
(2) hình phạt phải làm sao cho việc phạm tội trở nên ít hấp dẫn hơn;
(3) hình phạt phải có sự điều tiết tùy theo mức độ nghiêm trọng của tội phạm;
(4) xã hội được hưởng lợi từ lao động của những kẻ có tội, những người phải trả gia cho tội ác mà họ đã phạm phải; tuy nhiên, trừng phạt tội phạm không phải là mục tiêu duy nhất, việc trừng phạt cần phải tạo ra những dấu hiệu răn đe trong tâm trí xã hội;
(5) tuyên truyền rộng rãi về các hình phạt mới, những hình phạt thuộc về một nghệ thuật trừng phạt mới, bởi các mức độ hà khắc nhiều hay ít của các hình phạt sẽ đem đến một bài học rõ ràng về nền tảng đạo đức trong xã hội
(6) nghệ thuật trừng phạt mới phải gây ra sự đảo ngược so với diễn ngôn truyền thống về tội phạm: những tội phạm lớn không còn phải được tôn vinh nữa, tội ác trong tất cả các trường hợp phải được coi như một điều bất hạnh.
Phần thứ ba: Kỷ luật
Phần thứ ba có thể coi là trái tim của cuốn sách. Chọn hình tượng điển hình của người lính vào đầu thế kỷ 17 để làm ví dụ, Foucault đã phác họa lại cái phả hệ của các phương pháp giám sát và kỷ luật đã tồn tại từ lâu trong quân đội, tu viện và công xưởng. Nhưng theo như Foucault đã nhận xét, trong suốt thế kỷ XVII và XVIII, các phương pháp kỷ luật đã trở thành “công thức thống trị tổng quan ”. Ở đây, độc giả được cuốn hút vào vào một hình trình khám phá mang tính khảo cổ về các kỹ thuật và quy tắc chính đã hỗ trợ việc thực hiện các phương pháp kỷ luật mới.Thứ nhất, kỷ luật dựa trên "nghệ thuật phân phối"và sử dụng các kỹ thuật sau đây.
(1) “Bao kín ”: trường học, tu viện, nhà máy và doanh trại đều tượng trưng cho những nơi được bảo vệ, không đồng nhất và không liên thông với tất cả những nơi khác.
(2) “Phân tách ”: bởi vì kỷ luật xác định và tổ chức chính xác ra các không gian chức năng, nhằm đạt tới nguyên lý “mỗi cá nhân có vị trí của mình, và mỗi vị trí là dành cho mỗi cá nhân”.
(3) “gắn với chức năng”: trong thiết kế kiến trúc của các tổ chức kỷ luật, các không gian cụ thể phải được thiết kế để tạo điều kiện cho việc giám sát, kiểm soát và nói chung là “hữu ích”, đồng thời cấm giao tiếp giữa các cá nhân.
Nếu “nghệ thuật phân phối” được mô tả ở trên đóng một vai trò trung tâm trong số các nguyên tắc kỷ luật mà Foucault đã nhận ra, thì việc “kiểm soát hoạt động” cũng rất quan trọng.
Chi tiết hơn, Foucault minh họa cho người đọc rằng việc thực thi kỷ luật giả định một cơ chế bị ràng buộc bởi sự quan sát, làm cho chúng ta thấy rõ những gì mà nó áp dụng vào. Giám sát theo thứ bậc cho phép quan sát và kiểm soát liên tục mọi thứ, đem sự quan sát kỷ luật đến với tất cả các khu vực cần giám sát. Do đó, một cái kính hiển vi theo dõi ứng xử của con người được tạo ra, nó tạo thành một bộ máy để quan sát, ghi chép và đào tạo mọi người trong bất kỳ cơ sở kỷ luật nào, chẳng hạn như nhà tù, nhà máy, bệnh viện, trường học / trại tị nạn, doanh trại quân đội. Do đó, giám sát dường như là trung tâm của bất kỳ quá trình sản xuất / công việc nào, làm tăng hiệu quả của nó và như một cơ chế của quyền lực kỷ luật.
Sau một bản gia phả ngắn gọn về vai trò của phán xét trong một trại trẻ mồ côi ở Pháp, Foucault tiếp tục đề cao chức năng của các biện pháp trừng phạt kỷ luật, Ngoài những hình phạt vay mượn từ hệ thống pháp luật, tác giả còn giới thiệu cho người đọc những hình thức huấn luyện và bài tập khác nhau hình thành nên nghệ thuật trừng phạt mới. Những thực hành kỷ luật này có mục đích giảm thiểu những sai lệch, về cơ bản là nhằm vào việc sửa chữa, và vì thế, chúng phải bao gồm cả sự khen thưởng và trừng phạt trong quá trình đào tạo và điều chỉnh hành vi.
Mục cuối cùng trong phần ba của cuốn sách dành hoàn toàn cho “chủ nghĩa khái quát ” (panotisme). Ở đây Foucault đã cho người đọc làm quen với hệ thống giám sát toàn cảnh “Panopticon” của Jeremy Bentham (Bentham 1843), được trình bày như một sự phối hợp của các biện pháp kỷ luật khác nhau dùng để áp dụng cho “những cá nhân không bình thường”. Do đó, "Panopticon" sẽ được người đọc hình dung như một tòa nhà hình tháp ấn tượng với ngọn tháp trung tâm cho phép lính canh - cũng như bất kỳ thành viên nào trong xã hội - thực hiện việc giám sát và kiểm tra thường xuyên rất hiệu quả trong các cơ sở như nhà tù, bệnh viện, trường học và nhà máy. Các chức năng và cách triển khai của nó như một cỗ máy kỳ diệu đã được Foucault phơi bày ra ánh sáng một cách tuyệt vời trong đoạn trích sau:
“Do hiệu ứng ngược sáng, từ tháp người ta có thể nhìn thấy, tự nổi bật trong ánh sáng, những hình bóng bé nhỏ bị giam cầm trong các xà lim ở ngoại vi. Bao nhiêu phòng giam thì bấy nhiêu sân khấu, nơi mỗi diễn viên chỉ có một mình, hoàn toàn cá biệt và liên tục bị nhìn thấy được. Thiết bị giám sát toàn cảnh cho phép sắp xếp các đơn vị không gian sao cho chúng có thể liên tục nhìn thấy và nhận ra ngay tức thì ... Mỗi cá nhân ... được nhìn thấy, nhưng anh ta không nhìn thấy; anh ta là một đối tượng thông tin, không bao giờ là một đối tượng giao tiếp…
Khái niệm hiệu quả cũng được nhấn mạnh nhiều trong phần này vì Foucault mô tả Panopticon như một cỗ máy có thể tăng số lượng người được giám sát, đồng thời giảm số lượng giám sát viên cần thiết. Đến đây người đọc cảm thấy hoàn toàn bị cuốn vào cảnh tượng của sự giám sát vô hình và hiệu quả; từ hình ảnh minh họa sống động và đáng ghê tởm về cơ thể không mảnh vải che thân của tên sát nhân Damien, giờ đây người đọc đã hoàn toàn quen thuộc với cơ chế cố định bắt vít các cơ thể trong một trật tự xã hội chính xác.
Trong viễn cảnh xã hội thời đó, như Foucault đã nhấn mạnh: nhà tù, bệnh viện, trường học và nhà máy đều giống nhau bởi vì chúng đều là những nơi quan sát các "cơ thể " - tội phạm, bệnh nhân, cựu sinh viên và công nhân, được phân loại và đào tạo, sắp xếp ứng xử của họ với các tiêu chuẩn được thiết lập trước.
Phần thứ tư : Nhà tù
Trong mục đầu tiên của phần bốn của cuốn sách, cụ thể là “Các thể chế trọn vẹn và khắc khổ”, rốt cuộc người đọc cũng sẽ đi tới cuộc thảo luận về sự ra đời của nhà tù, nhằm khắc họa sự biến đổi của các vai trò và kỹ thuật của nó.
Thật vậy - như Foucault đã cung cấp các tư liệu - nhà tù đã tồn tại từ nhiều thế kỷ và từ lâu đã ăn sâu bám rễ vào trong lòng xã hội , vì vậydường như khó có thể hình dung về bất kỳ sự thay đổi nào. Tuy nhiên, cơ chế cưỡng chế và sơ đồ tổ chức nhà tù trong thế kỷ 18 - 19 là hoàn toàn mới, bởi vì hệ thống tư pháp hình sự mới đã bao gồm cả cùng lúc cả 2 yếu tố : "tước đoạt tự do" và "chuyển đổi kỹ thuật của các cá nhân".
Tiếp sau đó, Foucault giới thiệu với độc giả các nguyên tắc chính của nhà tù trừng phạt: đó là cách ly/ cô lập, cưỡng bức lao động hình sự và công cụ điều chỉnh hình phạt với những quy định chi tiết về hành vi theo thời gian và không gian, cách thức điều chỉnh hình phạt. Foucault nhắc nhở chúng ta rằng việc quan sát, theo dõi, ghi âm và ghi hình các tội phạm giúp chúng ta có thể tích lũy và tập trung một khối lượng lớn thông tin và những hiểu biết về họ. Điều này giải thích lý do tại sao hầu hết các nhà tù nên được thiết kế theo sơ đồ Panopticon, tính hợp lý của cái sơ đồ này của cho phép định hướng theo một lôgic của tính hiệu quả và năng suất, cũng như hướng tới sự chuẩn mực hóa của các cá nhân.
Phần tiếp theo "Các hành vi phạm pháp và tình trạng phạm tội " trình bày khái niệm về tính “bất hợp pháp” để cung cấp cho người đọc một lời giải thích cho sự ra đời và tồn tại lâu dài của hệ thống nhà tù. Bỏ tù được mô tả như một "dự án kỹ thuật" cho phép phát hiện sự chuyển đổi từ một nghệ thuật trừng phạt cũ sang một nghệ thuật trừng phạt mới. Sự xuất hiện của nhà tù góp phần xóa bỏ cái cảnh tượng của đoạn đầu đài và chuỗi nghi lễ xung quanh cơ thể của tội phạm.
Trong phần cuối “ Yếu tố nhà tù” , Foucault đã cảnh báo độc giả về những thất bại của nhà tù đã ảnh hưởng đến nguyên lý đền tội và theo ông, hầu như không làm thay đổi tình trạng phạm pháp trong xã hội đương đại.
Đó là: (a) tỷ lệ tội phạm không giảm bởi các nhà tù; (b) việc giam giữ kích thích tái phạm; c) nhà tù không thiếu cơ hội làm sản sinh ra những kẻ phạm pháp; (d) nhà tù tạo ra khả năng, và thậm chí khuyến khích, tổ chức liên kết các phạm nhân, do đó duy trì các mối quan hệ hướng tới việc hợp tác tội phạm trong tương lai; (e) các điều kiện dành cho các tù nhân được phóng thích buộc cúng phải đi đến chỗ tái phạm (f) nhà tù gián tiếp tạo ra phạm tội bằng cách làm cho gia đình kẻ bị giam giữ rơi vào hoàn cảnh nghèo túng .
Đề cập đến các cuộc bạo loạn đương đại của Pháp trong những năm 1970, nguyên nhân từ việc áp dụng những cải cách thiếu hiệu quả vào những năm 1945. Foucault đã nêu ra bảy nguyên tắc tổng quát để đánh giá một nhà tù tốt, đó là: (1) Việc chuyển đổi hành vi của cá nhân phải là tiêu điểm. chức năng tạm giữ hình sự; (2) các tiêu chí được lựa chọn, chẳng hạn như tuổi tác, trạng thái tinh thần, mức độ nghiêm trọng của luật pháp, kỹ thuật sửa sai được sử dụng, v.v., sẽ được sử dụng để phân bổ và phân tách các phạm nhân trong nhà tù; (3) trong thời hạn tù, kết quả thu được trong quá trình huấn luyện và sửa sai, sự tiến bộ hoặc tái phát được ghi nhận, cũng như cá nhân của những người bị kết án, có thể dẫn đến việc điều chỉnh / sửa đổi / giảm nhẹ các hình phạt đầu vào; (4) lao động hình sự phải là một trong những thành phần chính cho phép cải tạo và xã hội hóa các tù nhân; (5) việc giáo dục bắt buộc người bị kết án là cần thiết để họ cải thiện, đồng thời phục vụ lợi ích của xã hội; (6) Cơ sở giáo dưỡng cần nhân sự có trình độ chuyên môn cao, có cả phẩm chất đạo đức và năng lực kỹ thuật cần thiết của nhà giáo; (7) Để hoàn thành quá trình cải tạo của tù nhân, các biện pháp giám sát và trợ giúp phải song hành với hình phạt tù.
Sau khi mô tả rõ ràng sự thất bại của các nhà tù, và đưa ra một danh sách các cải cách cấp thiết mà cho đến lúc này vẫn bị bỏ quên, Foucault đã vẽ ra một bức tranh về sự gia tăng các hành vi phạm pháp khiến toàn xã hội lo ngại vì cả nhà tù và các bản án đều không nhằm mục đích loại bỏ tội phạm, "mà là chỉ để phân loại chúng, để phân bố, điều phối chúng, v.v. (tr. 292). Như vậy, bạn đọc hiểu rằng, cả nhà tù và các bản án đều có thể được xem là “thủ đoạn khuất phục”, vướng vào một hệ thống kỷ luật lớn hơn đương thời, sinh ra từ sự cân xứng và xung đột giai cấp về kinh tế, xã hội của thế kỷ 18/19.
Trong phần cuối cùng của toàn bộ cuốn sách, ngày 22 tháng 2 năm 1840 được giới thiệu như là ngày hoàn thành hệ thống “nhà tù”. Thật vậy, hệ thống hình phạt nổi tiếng của Mettray đã chính thức được khánh thành vào ngày hôm đó. Các trưởng và phó trại giam được miêu tả là "kỹ thuật viên ứng xử ", "kỹ sư hành xử", "nhà chỉnh hình cho các cá nhân", những người có kỹ năng mới mẻ để áp dụng hình phạt và khả năng thực hành được đào tạo bài bản.
Foucault kết thúc cuốn sách bằng cách hy vọng rằng trong tương lai, đối với những “nghiên cứu về sức mạnh của sự chuẩn hóa và hình thành tri thức trong xã hội hiện đại”, bản thảo của ông có thể đóng vai trò như một nền tảng mang tính lịch sử.