Sách Khai Minh - Phụng Sự Nhân Sinh

NNC BÙI VĂN NAM SƠN: Ý niệm đại học như một giá trị cốt lõi - 1

09/09/2020

Tác giả: NNC Bùi Văn Nam Sơn

Nguồn: Văn hóa Nghệ An

NNC BÙI VĂN NAM SƠN: Ý niệm đại học như một giá trị cốt lõi - 1

 

I.

“Ý niệm đại học” là cách dịch tinh tường và tinh tế nhan đề tác phẩm nổi tiếng của Karl Jaspers [1]. Bởi, “Idee/Idea” ở đây không có nghĩa đơn giản là “ý tưởng”, theo nghĩa là “suy nghĩ” hay “ý kiến” nào đó về đại học. Jaspers, một trong những triết gia hàng đầu của thế kỷ 20, đã cố ý sử dụng thuật ngữ “Ý niệm” tiêu biểu của bậc tiền bối là Immanuel Kant để chỉ Nguyên tắc của lý tính, lý tưởng để vươn tới tuy không bao giờ đạt được trọn vẹn, như ngôi sao Bắc đẩu dẫn đường cho kẻ lữ hành. Vâng, theo Jaspers, quả có một Ý niệm về đại học, và Ý niệm này (xin viết hoa để phân biệt!) là Tinh thần sống động, là Hồn của đại học. Nhưng, một khi phải bàn về “Ý niệm đại học” là mặc nhiên thú nhận rằng Ý niệm ấy đang bị xem nhẹ, ánh sáng dẫn đường ấy đang bị lu mờ, hồn cốt ấy đang phai nhạt và có nguy cơ tan biến. Tương lai cho nền đại học đã bị sa đọa như thế phụ thuộc vào sự khôi phục Tinh thần nguyên thủy. Jaspers thừa biết rằng con đường trở về lại với thời cổ điển là vô vọng, nhưng một sự tái tạo theo tinh thần của Humboldt trong những điều kiện kinh tế-xã hội mới mẻ là cần thiết, và, hơn thế, là có thể làm được. Theo Jaspers, đại học hiện đại đứng trước sự chọn lựa: “hoặc thành công trong việc giữ vững nền đại học (…) bằng sự tái sinh của Ý niệm trong nỗ lực kiên quyết hiện thực hóa một hình thái tổ chức mới, hoặc đại học sẽ cáo chung trong tính chức năng [đơn thuần] của những cơ sở khổng lồ đào tạo những chuyên viên khoa học-kỹ thuật” [2]. Khôi phục nguyên si mô hình đại học cổ điển của Humboldt là bất khả thi, bởi Ý niệm không phải là cái gì tĩnh tại và đã hoàn tất, độc lập với sự phát triển của bản thân Tinh thần và thoát ly khỏi những hoàn cảnh xã hội nhất định. Vì thế, tái sinh Ý niệm phải đi liền với sự đổi mới nó. Có những yêu sách truyền thống vẫn còn giá trị, nhưng, mặt khác, phải phù hợp với những hoàn cảnh mới.

Câu hỏi lập tức đặt ra: “Ý niệm” ấy là gì? Và tại sao nền đại học hiện đại - nói riêng là đại học Đức, đối tượng trực tiếp của Jaspers trong sách này - lại xa rời Ý niệm của nó? Đâu là những nguyên nhân bên trong và bên ngoài? Nếu không giải đúng những câu hỏi này, cương lĩnh “hồi sinh và đổi mới” chỉ là một giấc mơ hão huyền.

Quyển “Ý niệm Đại học” được K. Jaspers biên soạn ở Heidelberg (Đức) ngay sau Thế Chiến II, sau thảm họa kinh hoàng của bạo lực, khủng bố, chiến tranh và tội ác diệt chủng. Ông sử dụng bản sơ thảo cùng tên từ 1923, viết lại và bổ sung nhiều ý tưởng mới trước tình hình nghiêm trọng: sự tàn phá nền học thuật Đức nói chung và nền đại học Đức nói riêng của chủ nghĩa quốc xã [3], cùng với trách nhiệm cá nhân nặng nề của ông trong trọng trách xây dựng lại Đại học Heidelberg với tư cách là một thành viên lãnh đạo đại học.

Bản thân ông là nạn nhân trực tiếp của chế độ phát xít. Là một triết gia hàng đầu, ông bị cấm giảng dạy và công bố khoa học vì có vợ gốc Do Thái. Hai vợ chồng ông may mắn thoát chết vào giờ chót nhờ thành phố Heidelberg được giải phóng kịp thời. Ông viết: “Những người sống sót chúng tôi đã không đi tìm cái chết (…). Chúng tôi cố tìm cách để sống sót. Chính việc chúng tôi sống sót đã là một tội lỗi!” [4]. 

Lương tâm trí thức đã thúc đẩy Jaspers tìm cách cứu vãn những gì đã bị chế độ cực quyền tàn phá hầu như tận gốc rễ: sự độc lập tư duy và sự khách quan khoa học. Đối lập lại với chủ trương chính trị hóa và công cụ hóa đại học của chủ nghĩa quốc xã, Jaspers đề xướng quan niệm của Kant về “Ý niệm” theo nghĩa điều hướng, dẫn đạo (regulativ) như là lý tưởng cần vươn tới. Jaspers định nghĩa Ý niệm này là “lòng hiếu tri nguyên thủy”, và lòng hiếu tri ấy sẽ thể hiện trong việc đi tìm chân lý: trong đại học, thầy và trò cùng chia sẻ một đam mê, một khát vọng, dù biết rằng đó là một công cuộc bất tận, thậm chí bất khả, không khác gì của nhân vật Sysiphus trong thần thoại Hy Lạp. Tác phẩm này, do đó, cần được đọc từ bối cảnh ra đời đầy bi tráng của nó! Theo Jaspers, công cuộc đi tìm chân lý ấy triển khai trong bốn lĩnh vực lớn: 1. trong nghiên cứu và giảng dạy; 2. trong giáo dục và đào luyện (Bildung); 3. trong sự truyền thông và giao lưu; và, sau cùng, 4. trong tính phổ quát [5].

Đi tìm chân lý bằng khoa học, cho nên nghiên cứu là nền tảng và là nhiệm vụ cốt lõi của đại học. Và vì sự hiếu tri luôn mong muốn thông báo đến người khác, nên việc giảng dạy là bộ phận thiết yếu gắn liền với nghiên cứu. Việc nghiên cứu khoa học - như là nỗ lực không mệt mỏi hướng đến chân lý - sẽ hình thành một mẫu người đặc biệt: mẫu người được đào luyện trong “tinh thần khoa học” hay trong “thái độ khoa học” theo cách nói của ông: “giáo dục đại học là năng lực dẹp bỏ những đánh giá riêng tư, tùy tiện, dành chỗ cho tri thức khách quan, dẹp bỏ ý muốn nhất thời, nhường chỗ cho sự phân tích vô tư những sự kiện”. Hướng đến tính “nhân văn” (Humanitas) trong sự thống nhất giữa nghiên cứu và giảng dạy, nền giáo dục đúng nghĩa chỉ có thể hình thành trong sự trao đổi ý kiến “của mọi người với mọi người”, trong sự giao tiếp và truyền thông giữa người dạy và người học, và luôn trong mối quan hệ với cái toàn bộ, tức với tính “phổ quát” (Universalität) của các ngành khoa học. Như thế, theo Jaspers, đại học là sự hợp nhất giữa: “cơ sở nghiên cứu và giảng dạy, thế giới đào luyện, đời sống truyền thông, vũ trụ của các ngành khoa học”. Không một lĩnh vực hay khía cạnh nào được tách rời với các lĩnh vực hay khía cạnh khác, nếu không muốn phá hủy tính toàn bộ của đại học.

Ý niệm dẫn đạo ấy của Jaspers dẫn đến những hệ quả nào cho đại học, xét như một định chế? Ở đây, xin giới hạn vào ba điểm cốt yếu: 1. quan niệm của Jaspers về sự thống nhất mới mẻ của các ngành khoa học; 2. quan hệ giữa nhân cách và định chế (đại học), và 3. quan hệ giữa đại học và nhà nước.

Trước khi đi sâu hơn vào phân tích và nhận định, thử tóm lược những ý tưởng cốt lõi của Jaspers về ba điểm nói trên:

1.   Theo Jaspers, đại học là nơi “thực hiện năng lực hiếu tri trong phạm vi rộng lớn nhất của nó từ sự thống nhất các ngành khoa học như một toàn bộ, do đó, hệ thống phân chia các ngành khoa học cũng như “các phân khoa” phải có mối tương quan chặt chẽ với nhau. Theo ông, chính sự phân hóa “phân khoa triết học” vào thế kỷ 19 thành một bên là phân khoa toán học-khoa học tự nhiên, và bên kia là phân khoa thuộc “khoa học tinh thần” (ngày nay gọi là khoa học nhân văn và xã hội”), thêm vào đó là sự độc lập của các ngành kinh tế học, đã phá vỡ tính thống nhất của đại học. Trước mắt mọi người, đại học thoái hóa thành một “cửa hàng bách hóa”, phục vụ tùy theo ý thích của mỗi khách hàng. Lấy năm 1945 (kết thúc Thế chiến II) làm đường phân thủy, Jaspers nhìn thấy lối thoát cho kịch bản suy đồi ấy không phải trong việc quay trở lại với quá khứ, trái lại, trong việc thực hiện một sự thống nhất mới mẻ của đại học. Cơ hội cho sự thống nhất mới mẻ này là việc tích hợp tri thức và năng lực nghiên cứu hiện đại (nhất là của lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ) trong sự mở rộng đại học như một tiến trình liên tục. Ông tin rằng Ý niệm đại học đòi hỏi sự “tiếp thu linh động” chất liệu mới và năng lực mới từ bên ngoài để tiếp tục phát triển bản thân nền khoa học với sự phân ngành tất yếu của nó.

2.   Định chế đại học, theo Jaspers, chỉ là “điều kiện” cho việc phát huy nhân cách của những con người sống và làm việc trong đó. Định chế “được đánh giá tùy theo việc nó có thể đào tạo nên những nhân cách tốt đẹp nhất hay không và liệu nó có khả năng đảm bảo những điều kiện tinh thần cho việc nghiên cứu, truyền thông và giảng dạy”. Tất nhiên, Jaspers không quá “lý tưởng” đến độ có ảo tưởng trước sự hèn kém về nhân cách của biết bao thành viên trong đại học, nhất là của những thế lực muốn khống chế và làm méo mó đại học. Nhưng, với kinh nghiệm xương máu và đầy tủi nhục của thời kỳ quốc xã, Jaspers muốn nhấn mạnh đến nguy cơ sa đọa của đại học, đến yêu cầu khẩn thiết của việc phải nhanh chóng vượt bỏ “sự cuồng tín và mù quáng”, để khôi phục và thúc đẩy “tính nhân văn”, sự khoan dung và tinh thần “cộng đồng” trong lý tính.

3.   Về mối quan hệ giữa đại học và nhà nước, Jaspers nhận ra một sự tương hỗ luôn căng bức và nghịch lý: đại học vừa thuộc nhà nước (staatlich), vừa đồng thời, độc lập và không mang tính nhà nước (staatsfrei). Nó thuộc nhà nước bởi phải phục tùng sự quản lý nhà nước và cần sự tài trợ mạnh mẽ, nhưng đồng thời không mang tính nhà nước bởi sự tự trị, tức tự-chịu trách nhiệm trong nghiên cứu, giảng dạy với đầy đủ các quyền hạn của “hội đoàn” trong việc tổ chức thi cử, cấp bằng và thu dụng nhân sự.

 

II.

Ta thử đi sâu hơn vào các luận điểm nói trên của Jaspers:

1. Bản chất của khoa học

Ý  niệm đại học đặt cơ sở trên “bản chất của khoa học”. Vì, theo Jaspers, “nơi đâu có việc tìm tòi chân lý vô-điều kiện, ở đó có yêu sách của con người xét như là con người”. Yêu sách “của con người xét như là con người” khác về chất với những nguyện vọng và nhu cầu nhất thời của mỗi cá nhân. “Ý chí cơ bản của con người là dám đi tìm chân lý vô giới hạn với bất kỳ giá nào”. Bởi, chỉ có như thế mới cho phép con người đạt tới đỉnh cao trong trải nghiệm về Tồn tại. Thế nào là “trải nghiệm về Tồn tại”? Và đâu là đỉnh cao có thể vươn tới? Hai câu hỏi chỉ có thể được trả lời một cách bất tận ngay trong đời sống của đại học! Chính từ việc đi tìm chân lý vô-điều kiện và vô-giới hạn này, Jaspers đề ra cương lĩnh của đại học: “Đại học là nơi hiện thực hóa lòng hiếu tri nguyên thủy. Nó không có mục đích nào khác hơn là trải nghiệm những gì ta có thể biết và những gì ta sẽ trở thành, thông qua tri thức. Nhiệt tình muốn biết này tự biểu hiện qua sự quan sát, qua tư duy có phương pháp, và qua sự tự phê phán như là nỗ lực đào tạo hướng đến tính khách quan. Nhưng đồng thời, cũng là trải nghiệm không chỉ về những ranh giới, về sự không biết mà cả về những rủi ro, căng thẳng vốn có trong bất kỳ cuộc tìm kiếm trí tuệ nào. Tính duy nhất và tính toàn thể là bản chất thực sự của lòng hiếu tri nguyên thủy. Tuy tính duy nhất và tính toàn thể này bao giờ cũng chỉ được hiện thực hóa trong những lĩnh vực chuyên môn, nhưng những lĩnh vực này chỉ có được đời sống tinh thần, khi chúng là những bộ phận của một cái toàn bộ. Sự hội nhập những ngành khác nhau liên kết thành một vũ trụ, đạt tới đỉnh điểm trong viễn quan của khoa học hợp nhất, trong thần học và triết học. Chắc chắn, cái toàn bộ này bao gồm những đối cực nhiều lần phân rã thành những đối nghịch xung đột và loại bỏ lẫn nhau. Tuy thế, tính thống nhất của mọi ngành khoa học vẫn tồn tại. Vì, bất chấp sự đa dạng vô hạn về đối tượng và vấn đề, mọi học giả ít ra đều gắn kết với nhau trong một thái độ cơ bản, đó là “tính khoa học”.

Sau khi giải thích khái niệm “bản chất khoa học”, Jaspers phân biệt giữa “khoa học theo nghĩa hẹp” (chỉ các ngành khoa học riêng lẻ như vật lý, hóa học v.v…) với “khoa học theo nghĩa đích thực hay theo nghĩa rộng”, khi phản tư về điều kiện khả thể của khoa học, tức về vấn đề vốn không được đặt ra trong bản thân các khoa học riêng lẻ. Theo đó, khoa học theo nghĩa hẹp có các hạn chế sau đây:

-    “tri thức khoa học về sự vật không phải là tri thức về Tồn tại”. Các khoa học riêng lẻ cô lập những quan hệ đặc thù khỏi mối quan hệ phổ biến. Ta không nhận thức được “bản thân Tồn tại” nơi những đối tượng nhất định, trái lại, chỉ nhận thức được mặt hiện tượng của chúng, vì những đối tượng của khoa học tự nhiên đều là những hiện tượng trong khuôn khổ không-thời gian. Chính cái biết mở rộng đến vô tận về những mối quan hệ tự nhiên sẽ tạo ra “cái biết chắc chắn nhất về cái không biết”. Do đó, theo Jaspers, sẽ là sai lầm cơ bản khi tin rằng tất cả đều được giải quyết trong các mối quan hệ “tự nhiên”, tức chỉ được tiếp cận bởi khoa học tự nhiên.

-  “tri thức khoa học không thể mang lại cứu cánh nào cho đời sống. Nó không đề ra được những giá trị chung quyết”. Những cứu cánh, nhất là cứu cánh tối hậu như là sự Thiện tối cao, không thuộc về lĩnh vực khoa học, trái lại, cho thấy có nguồn gốc ngoại lý, siêu lý.

-  “khoa học không thể giải đáp cho câu hỏi về ý nghĩa của chính nó”, cũng như không thể phản tỉnh về cơ sở của chính mình

xem tiếp

---------------

[1] Karl Jaspers (1883-1969) là một trong những triết gia quan trọng nhất của thế kỷ 20. Tuy không chịu nhận danh hiệu, ông thường được xem là triết gia hiện sinh “hữu thần”, trong khi Martin Heidegger và J. P. Sartre… là hiện sinh “vô thần”. Xuất thân là bác sĩ y khoa, ông đi từ tâm bệnh học sang tâm lý học và triết học, với nhiều suy tưởng sâu sắc về ý nghĩa của đời người (qua các thuật ngữ nổi tiếng như: hoàn cảnh ranh giới, thất bại, giao cảm, tự do, siêu việt, lòng tin triết học…). Là nạn nhân của chủ nghĩa phát xít Đức, Jaspers đấu tranh cho nền dân chủ và kêu gọi tái lập nền giáo dục hướng theo những giá trị, mà Ý niệm đại học là tác phẩm tiêu biểu. Từ 1948, ông rời nước Đức, sang Basel (Thụy Sĩ) giảng dạy cho đến khi mất vào năm 1969. Xem thêm: Karl Jaspers, Triết học nhập môn, bản dịch của Lê Tôn Nghiêm, NXB Ca Dao, 1974, tái bản: NXB Thuận Hóa, Huế, 2004.

[2] Những trích dẫn, trừ khi có chú thích khác, đều từ “Ý niệm Đại học” (nguyên bản tiếng Đức).

[3] Không thể kể xiết những truy bức, tổn thất và thoái hóa mà nền đại học Đức thời quốc xã Đức phải gánh chịu khi bị bắt buộc phải phục vụ chế độ cực quyền chuyên chế. Chỉ riêng về số lượng: mất hơn 3000 học giả - tức một phần ba nhân sự -, vô số phải tị nạn ở nước ngoài, một cuộc di tản trí thức lớn nhất chưa từng có thời bấy giờ.

[4] Karl Jaspers, Die Schuldfrage / Câu hỏi về tội lỗi, Heidelberg 1946, tr. 64 và tiếp.

[5] Xem thêm: Hedwig Kopetz, Forschung und Lehre. Die Idee der Universität bei Humboldt, Jaspers, Schelsky und Mittelstraß / Nghiên cứu và giảng dạy. Ý niệm Đại học nơi Humboldt, Jaspers, Schelsky và Mittelstraß; Wien-Köln-Graz 2002, tr. 57 và tiếp.

zalo